THẦU DẦU
Tên khoa học: Ricinus communis L. Họ Thầu dầu- Euphorbiaceae.
Đặc điểm thực vật và phân bố
Cây sống dai, có thể cao 5 - 6m, lá mọc so le, có cuống dài. Lá kèm sớm rụng, gân lá toả tròn. Phiến lá chia thành 5 -7 thuỳ, khía răng cưa. Cụm hoa là chùm xim. Hoa đơn tính không cánh. Hoa đực ở phía dưới cụm hoa, hoa cái ở phía trên. Hoa đực có 5 lá đài và nhiều nhị phân nhánh mang 1 ô của bao phấn. Hoa cái có 3 lá đài và 3 noãn. Bầu thượng 3 ô, mỗi ô chứa 1 noãn, ngoài có gai mềm. Quả khô gồm có 3 ngăn vỏ cứng, trên mỗi ngăn có một rãnh nông, khi chín nứt thành 6 mảnh. Hạt có mồng, vỏ bên ngoài cứng và có vân, nội nhũ chứa nhiều dầu.
Thầu dầu mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Vĩnh Phú, Quang Nam - Đà Nẵng. Ngoài ra còn mọc ở các nước Ấn Độ, châu Mỹ, châu Phi. Hàng năm trên thế giới sản xuất khoảng 40 vạn tấn dầu thầu dầu.
Trồng trọt và thu hoạch
Trồng bằng hạt vào tháng 12 - tháng 1. Thu hoạch vào tháng 4 - 5. Mỗi ha khoảng 375 - 750 kg hạt.
Bộ phận dùng
- Hạt thầu dầu - Semen Ricini; hạt hình bầu dục, có mồng, trông giống con ve chó.
Đặc điểm vi phẫu hạt:
+ Lớp vỏ hạt gồm một hàng tế bào biểu bì mang màu sắc khác nhau tạo thành vân trên vỏ hạt, lớp mô mêm gồm vài hàng tế bào hình giậu, một lớp mô cứng gồm các tế bào hình giậu chiều dài gấp 12 - 15 lần chiều rộng, màu nâu thẫm, thành rất dày. Một lớp màng trong gồm các tế bào dẹt có chứa tinh thể calci oxalat.
+ Nội nhũ cấu tạo bởi những tế bào đa giác có chứa giọt dầu và hạt alơron. Các đặc điểm trên có thể dùng phát hiện khô dầu Thầu dầu trộn trong thức ăn gia súc gây ngộ độc.
- Dầu thầu dầu - Oleum Ricini.
- Lá thầu dầu - Folium Ricini.
Thành phần hoá học
- Hạt chứa 50% dầu, 26% protein trong đó có ricin là một protein độc, 0,2% ricinin, ngoài ra còn có enzym lipase, vitamin E v.v...
Dầu thầu dầu là chất lỏng không màu hoặc màu hơi vàng, rất sánh, mùi đặc biệt, vị khó chịu và buồn nôn, tan trong cồn tuyệt đối, tan khoảng 30% trong cồn 90o, không tan trong ether dầu hoả. Tỷ trọng của dầu là 0,953 - 0,964, năng quay cực αD: + 3o đến + 5o, nD20: 1,478 - 1,480, chỉ số iod 82 - 90, chỉ số acetyl 143 - 156.
Thành phần cấu tạo của dầu gồm acylglycerol của acid ricinoleic (90%), ngoài ra còn có các acid stearic, palmitic và oleic. Khoảng 0,12% (so với hạt) là các hợp chất phospholipid, trong đó 83% là phosphatidyletanolamin và 13% là phosphatidylcolin, phosphatidylcerin và inozitolphosphatid chỉ có với hàm lượng rất thấp. Kết quả phân tích bằng sắc ký khí cho thấy trong cấu tạo của phospholipid có 27,7% acid palmitic, 12,9% acid stearic, 18,5%acid oleic và 33,2% acid linoleic, không thấy có acid ricinoleic. Ngoài ra còn có các hợp chất sterol: Cholesterol, campesterol, stigmasterol, b - sitosterol v.v...
Kiểm nghiệm dầu
Dựa vào độ tan đặc biệt của dầu thầu dầu để phát hiện các dầu lạ có thể giả mạo. Phương pháp DĐVN I: 1ml dầu phải tan trong cùng thể tích ether dầu hoả, nếu cho thừa ether dầu hoả dung dịch đục và tách thành 2 lớp.
Phát hiện dầu ép nóng: Hoà tan 3 ml dầu thầu dầu trong 3 ml chloroform thêm 1 ml acid sulfuric đặc, lắc trong 3 phút, hỗn hợp phải có màu đỏ nâu, không được có màu nâu đen.
Từ bã sau ép hết dầu, đã phân lập được ricin D, ricin acid và ricin base. Ricin D là một protein- đường rất độc, mỗi phân tử có 493 acid amin và 23 phân tử đường. Ricin acid và ricin base cũng có cấu tạo tương tự. Trong mỗi phân tử có 2 mạch peptid nối với nhau bởi dây nối S - S, 1 mạch isoleucin, 1 mạch alanin. Trong hạt có chứa ricinin là 1 alcaloid không độc.
Trong vỏ quả có chứa lupeol và 30 - norlupan-3β-ol-20-on.
Lá có chứa các acid hữu cơ: Acid oxalic, citrric, malic, nhiều acid amin, các hợp chất flavonoid (quercetin, isoquercetin), các acid béo no và không no, tanin (corilazin) và acid sikimic.
Từ hạt nảy mầm đã chiết được catben, một dẫn chất diterpen có tác dụng trị nấm và cytocrom C.
Tác dụng, công dụng, liều dùng
Dầu thầu dầu có tác dụng nhuận và tẩy là do acid ricinoleic. Khi vào cơ thể enzym lypase thuỷ phân dầu giải phóng acid ricinoleic tự do, acid này kích thích nhu động ruột. Liều dùng nhuận tràng 2 - 10 g dầu, tẩy 10 - 30 g dầu trong 1 ngày.
Cracking dầu thầu dầu thu được acid undecilenic và oenanthol. Acid undecilenic dùng làm thuốc trị nấm ngoài da, oenanthol được dùng trong kỹ nghệ hương liệu để tổng hợp các chất thơm.
Dầu thầu dầu còn dùng để điều chế xà phòng, dùng làm dầu bôi trơn cho các động cơ máy bay, dầu phanh, dùng làm chất phá bọt trong các nồi hơi, nồi cất tinh dầu.
Hạt thầu dầu giã nhỏ chế thành thuốc cao dán để chữa viêm hạch cổ, viêm tuyến vú. Thuốc cao dán gồm nhân hạt thầu dầu kết hợp với ngũ bội tử theo tỷ lệ 98: 2, dán vào huyệt bách hội có thể chữa sa dạ dày.
Theo kinh nghiệm Y học dân tộc cổ truyền, lá tươi giã đắp vào gan bàn chân để chữa sót rau, hoặc đem lăn vào trước ngực và sau lưng để chữa bệnh sởi không mọc. Còn dùng diệt bọ gậy.
Chú thích: Dầu thầu dầu không độc, nhưng hạt và khô dầu thầu dầu rất độc, vì có chứa ricin. Khi bị ngộ độc có hiện tượng nóng cổ họng, buồn nôn, sốt, đi tả, huyết áp hạ dẫn đến ngừng hô hấp và chết (ăn 10 hạt có thể chết người). Chữa ngộ độc bằng cách gây nôn, rửa dạ dày, tiêm tĩnh mạch dung dịch glucose và dung dịch huyết thanh kháng ricin kết hợp với thuốc giảm đau.
TÀI LIỆU THAM KHẢONgô Văn Thu (2011), “Bài giảng dược liệu”, tập I. Trường đại học Dược Hà Nội
Phạm Thanh Kỳ và cs. (1998), “Bài giảng dược liệu”, tập II. Trường đại học Dược Hà Nội
Đỗ Tất Lợi (2004), “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học
Viện dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản khoa hoc kỹ thuật.
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật.
0 nhận xét:
Post a Comment