THANH BÌ
Pericarpium Citri reticulatae viride
Vỏ quả non rụng hoặc vỏ quả chưa chín, phơi hay sấy khô của cây Quýt (Citrus reticulata Blanco), họ Cam (Rutaceae). Có 2 loại vỏ: Tứ hoa thanh bì và Cá thanh bì.
Mô tả
Tứ hoa thanh bì: Vỏ quả được bổ thành 4 miếng đến đáy gốc, 4 mảnh này hình thái không giống nhau, phần lớn cong vào phía trong, vỏ mỏng, hình bầu dục dài, chiều dài miếng 4-6 cm, dày 0,1-0,2 cm. Mặt ngoài màu lục xám hoặc màu lục đen, hơi ráp, có nhiều túi tiết, mặt trong màu trắng hoặc trắng vàng, ráp, có các gân trắng ngà hoặc nâu vàng nhạt. Chất hơi cứng, dễ bẻ gẫy, mặt cắt có 1-2 hàng túi tiết ở phần ngoài. Mùi thơm ngát, vị đắng, cay. Vỏ màu lục đen, mặt trong trắng nhiều tinh dầu là tốt.
Cá thanh bì: Gần hình cầu, đường kính 0,5-2 cm. Mặt ngoài lục xám hay lục đen, hơi ráp, có nhiều túi tiết nhỏ và chìm. Ở đỉnh quả có vòi nhụy hơi nhô lên, ở gốc quả có vết sẹo tròn của cuống quả. Chất cứng, mặt cắt màu trắng ngà hoặc màu nâu vàng nhạt, dày 1-2 mm, có 1-2 hàng túi tiết ở phần ngoài. Mùi thơm ngát, vị đắng cay.
Bột
Tứ hoa thanh bì: Bột màu lục xám hoặc nâu xám, nhiều tế bào mô mềm không đều nhau, thành hơi dày, một số dạng chuỗi hạt. Tế bào biểu bì vỏ quả hình đa giác hoặc hình gần vuông khi nhìn trên bề mặt, thành dày lồi lên. Tinh thể calci oxalat hình lăng trụ có trong tế bào mô mềm gần biểu bì, tế bào hình nhiều cạnh, hình thoi, hoặc vuông, đường kính 8-28 mm, dài 24-32 mm. Tinh thể hesperidin vàng nâu nhạt, hình bán cầu, tròn hoặc khối không đều. Mạch xoắn và mạch lưới nhỏ.
Cá thanh bì: Tế bào biểu bì của múi cơm quả dài, hẹp, thành mỏng, một số hơi uốn lượn, có chứa tinh thể calci oxalat hình lăng trụ kích thước tương tự như ở vỏ quả; cũng có tinh thể hesperidin.
Độ ẩm
Không qúa 12% (Phụ lục 9.6).
Định tính
A. Lấy 0,3 g bột dược liệu, thêm 10 ml methanol (TT), đun hồi lưu trên cách thuỷ 20 phút, lọc. Lấy 1 ml dịch lọc, thêm một ít bột magnesi (TT) và vài giọt acid hydrocloric (TT), màu đỏ anh đào sẽ hiện dần ra.
B. Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ lục 4.4)
Bản mỏng: Silicagel G đã hoạt hoá ở 110 0C trong 30 phút.
Dung môi khai triển: Cloroform - methanol - acid acetic băng - butanol (13:0,4:0,1:0,1).
Dung dịch thử: Dùng 5 ml dịch lọc ở phản ứng A, cô trên cách thuỷ còn 1 ml.
Dung dịch đối chiếu: Dung dịch hesperidin bão hoà methanol. Nếu không có hesperidin, lấy 0,3 g bột Thanh bì rồi tiến hành chiết như dung dịch thử.
Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 5 ml mỗi dung dịch thử và dung dịch đối chiếu. Triển khai sắc ký xong, lấy bản mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng, phun dung dịch nhôm clorid 1% trong methanol (TT), quan sát dưới ánh sáng tử ngoại ở bước sóng 365 nm. Trên sắc ký đồ của dung dịch thử phải cho các vết có cùng màu và giá trị Rf với các vết trên sắc đồ của dung dịch đối chiếu.
Chế biến
Thu hoạch vào tháng 5-6, thu thập các quả quít non tự rơi rụng, rửa sạch, phơi khô (thường gọi là Cá thanh bì). Tháng 7-8 thu hái quả chưa chín rửa sạch, bổ dọc thành 4 mảnh vỏ dính nhau ở đáy quả, loại bỏ hoàn toàn ruột, phơi khô (thường gọi là Tứ hoa thanh bì).
Bào chế
Lấy thanh bì, loại bỏ tạp chất, rửa sạch, ủ mềm, thái lát dày hoặc thành sợi, phơi khô.
Thố thanh bì (chế giấm): Trộn đều miếng hoặc sợi Thanh bì với giấm, cho vào nồi, sao nhỏ lửa đến có màu hơi vàng, lấy ra phơi khô. Cứ 100 kg Thanh bì dùng 15 lít giấm.
Bảo quản
Để nơi khô.
Tính vị, quy kinh
Khổ, tân, ôn. Vào các kinh can, đởm, vị.
Công năng, chủ trị
Sơ can, phá khí, tiêu tích, hoá trệ. Chủ trị: Ngực sườn đau trướng, sán khí, hạch vú, nhọt vú, thực tích đau bụng.
Cách dùng, liều lượng
Ngày dùng 6 - 9 g, dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Kiêng kỵ
Người can huyết hư không có khí trệ thì kiêng dùng.
0 nhận xét:
Post a Comment