THUỐC LÁ
Tên khoa học cây thuốc lá: Nicotiana tabacum L., họ Cà – Solanaceae
Đặc điểm thực vật:
Cây thuộc thảo, sống hàng năm. Thân mọc đứng, cao khoảng 0,6 – 1,5m, phần gốc hoá gỗ. Lá hình bầu dục hơi thon, mọc sole, không có cuống, một mẩu lá phía dưới ôm vào thân, các lá phía trên bé hơn hình lưỡi mác. Thân và lá có nhiều lông. Hoa nhiều, tập hợp thành chuỳ ở ngọn. Đài có lông tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Đài và tràng đều liền cánh. Tràng dài gấp 4 – 5 lần đài, phía dưới thành ống nhỏ, phía trên mọc loe rộng ra. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, trong chứa nhiều hạt rất nhỏ màu đen.
Ở nước ta trồng cây thuốc lào – Nicotiana rustica L., thân thấp hơn, lá to và dày hơn.
Phân bố và trồng hái:
Cây thuốc lá có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, ngày nay được trồng ở nhiều nước khí hậu nhiệt đới và ôn đới trên toàn thế giới. Người ta ước tính hàng năm toàn thế giới sản xuất khoảng 4 triệu tấn lá khô, trong đó ¾ sản xuất ở châu Mỹ và các nước châu Á. Những nước sản xuất nhiều thuốc lá trên thế giới là: Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Nhật Bản, Nga…
Ở nước ta thuốc lào thường trồng tập trung ở một số tỉnh như Hải Dương, Hải Phòng (Tiên Lãng – Vĩnh Bảo). Thuốc lá được trồng ở nhiều tỉnh như: Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoà Bình, Gia Lai – Kon Tum, Đắc Lắc… Thuốc lá được trồng bằng hạt. Thời vụ gieo trồng thay đổi tuỳ theo giống và điều kiện khí hậu. Ở nước ta thường trồng vào tháng 12 và thu hoạch lá vào tháng 4 – 6.
Bộ phận dùng và thành phần hoá học:
Bộ phận dùng: lá (Folium Nicotianae)
Trong lá có các alcaloid là hoạt chất, trong đó alcaloid chính là nicotin (0,05 đến 10% ở thuốc lá và 16% ở thuốc lào). Nicotin là một chất lỏng như dầu, bay hơi được, mùi hắc, vị nóng, cay, hút ẩm và có thể trộn lẫn với nước trong dạng base của nó. Khi tinh khiết thì không màu nhưng để ngoài ánh sang và không khí ngả màu nâu, nicotin tan trong nước, rất tan trong dung môi hữu cơ. Là một base gốc nitơ nicotin tạo ra các muối với các acid, thông thường có dạng rắn và hòa tan được trong nước. Nicotin dễ dàng thẩm thấu qua da. Như các số liệu vật lý thể hiện, nicotin dạng base tự do sẽ cháy ở nhiệt độ thấp hơn điểm sôi của nó, và hơi của nó bắt cháy ở nhiệt độ 95°C trong không khí cho dù có áp suất của hơi là thấp. Do điều này, phần lớn nicotin bị cháy khi người ta đốt điếu thuốc lá; tuy nhiên, nó được hít vào đủ để gây ra các hiệu ứng mong muốn. Ngoài ra còn có một số alcaloid phụ có cấu trúc hóa học tương tự như: Norncotin, nicotyrin, anabasin, N – methylanabasin, nicotelin, myosmin… Một số chủng thuốc lá lại có nornicotin hoặc anabasin là alcoloid chính.
Ngoài ra, còn có các chất kiềm bay hơi (pyridin, N – methylpyrolidin), glucid (khoảng 40%), protein (12%), các acid hữu cơ (15% - 20%), các hợp chất đa phenol, ít tinh dầu, muối vô cơ, các men...
Trong hạt có 35% - 40% dầu (dầu này có chỉ số iod 133 – 138, chỉ số acid 1,57 – 3,14), protein (45%).
Tác dụng và công dụng
Liều nhỏ nicotin có tác dụng kích thích thần kinh trung ương và thần kinh thực vật, nhưng liều cao gây liệt. Với liều 50 – 100mg nicotin sẽ làm chết người do ngạt thở.
Nicotin vào cơ thể sẽ bị phân hủy nhanh chóng nhất là đối với người nghiện. Những người nghiện thường xuất hiện một số bệnh mãn tính đường hô hấp. Những công trình nghiên cứu gần đây cho thấy hút thuốc lá là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh ung thư phổi.
Thuốc lá và thuốc lào ít dùng làm thuốc cho người, trong nhân dân thường dùng đắp lên chỗ đứt tay, chân để cầm máu. Đối với súc vật, đôi khi người ta cũng dùng thuốc lá, thuốc lào pha nước để chữa ghẻ, chấy rận, bọ chó. Tránh bôi vào những chỗ da bị sây sát vì dễ gây ngộ độc.
Lượng thuốc lá thu hoạch hàng năm trên thế giới chủ yếu để phục vụ nhu cầu hút thuốc. Mặc dù thuốc lá có chất độc nhưng việc tiêu thụ thuốc lá trên thế giới ngày một tăng. Ngày nay, nhiều nước ngoài việc tăng cường giáo dục, vận động không hút thuốc đã có những biện pháp pháp lý để hạn chế việc hút thuốc nhất là đối với thiếu niên.
Nicotin lấy từ thuốc lá hoặc dư phẩm của công nghiệp thuốc lá có chứa nicotin được dùng làm thuốc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng. Nicotin cũng là nguyên liệu để chế tạo acid nicotinic và amid – nicotinic. Acid nicotinic tự do cũng được dùng làm thuốc giãn mạch ngoại biên và chống tăng lipid huyết.
Thân cây thuốc lá được dùng để sản xuất cellulose làm giấy và bìa cứng đóng gói. Dầu hạt thuốc lá dùng trong kỹ nghệ sơn và vecni vì là một loại dầu khô được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngô Văn Thu (2011), “Bài giảng dược liệu”, tập I. Trường đại học Dược Hà Nội
Phạm Thanh Kỳ và cs. (1998), “Bài giảng dược liệu”, tập II. Trường đại học Dược Hà Nội.
Đỗ Tất Lợi (2004), “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, Nhà xuất bản Y học.
Viện dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản khoa hoc kỹ thuật.
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật.
0 nhận xét:
Post a Comment